Tâm quay và lực quán tính
作成日: 2025年1月7日
作成日: 2025年1月7日
Understanding rotation dynamics
I'm thinking through the concepts of choosing a rotation axis in physics, likening it to selecting a reference frame where inertial forces act on rigid body elements.
Linking pivot choice to motion analysis
Setting a pivot in a rotating frame raises fictitious forces. These forces need careful consideration to understand the dynamics of each rigid body element.
Thought about quay point and inertial forces cho 8 giây
Giải thích hiện tượng “chọn tâm quay ở một điểm giống như xét hệ quy chiếu tại điểm ấy và các phần tử trong vật rắn đều chịu lực quán tính”
Khung quy chiếu quán tính và phi quán tính
Khi chọn một điểm làm tâm quay
Lực quán tính trong hệ quy chiếu quay
Vì sao cần quan tâm đến lực quán tính khi “chọn tâm quay”
Tóm lại
Do đó, câu “Việc chọn tâm quay ở một điểm giống như xét hệ quy chiếu tại điểm ấy và các phần tử trong vật rắn ấy đều chịu lực quán tính” chính là cách mô tả rằng khi dùng điểm đó làm gốc (coi như không chuyển động), thực chất ta đang dùng một khung quy chiếu quay – nơi bắt buộc phải tính thêm các lực quán tính để áp dụng định luật Newton một cách đầy đủ.
Investigating inertial forces
I’m digging into inertial forces in non-inertial frames, showing motion equations in these frames by linking them to those in inertial frames and considering additional terms.
Linking forces
I’m integrating Newton's second law and the d'Alembert principle to align forces in inertial and non-inertial frames, illustrating how inertial forces emerge from differences in acceleration.
Thought about quán tính và hệ quy chiếu cho 16 giây
Để “chứng minh” hay nói cách khác là giải thích có cơ sở lý thuyết cho sự xuất hiện của lực quán tính (lực ảo) khi ta đổi từ một hệ quy chiếu quán tính sang một hệ quy chiếu phi quán tính, ta thường dựa vào:
Dưới đây là hai cách tiếp cận phổ biến:
Giả sử:
Trong hệ quán tính , chuyển động của một chất điểm khối lượng tuân theo định luật II Newton:
trong đó là gia tốc của chất điểm (đo bởi hệ quán tính), và là tổng các lực thực tác dụng (trọng lực, lực đàn hồi, lực điện trường, lực ma sát, v.v.).
Nếu ta quan sát chuyển động của cùng chất điểm trong hệ đang gia tốc hoặc quay, thì gia tốc “nhìn thấy” trong hệ này không còn là đơn thuần nữa, mà có thêm/có bớt các “vế hiệu chỉnh” do chuyển động của chính hệ quy chiếu .
Trường hợp hệ tịnh tiến với gia tốc (không xét quay cho đơn giản), ta có:
(Vì trong khung phi quán tính này, nếu chất điểm “đứng yên” so với , thì thật ra trong khung quán tính nó đang chuyển động với gia tốc .)
Trường hợp hệ quay với vận tốc góc , ta sẽ có các biểu thức phức tạp hơn, sinh ra thêm các gia tốc quay (gồm gia tốc Coriolis, gia tốc ly tâm, v.v.).
Do trong hệ (phi quán tính) thấy chất điểm có gia tốc , nhưng định luật II Newton sẽ không còn đúng nếu ta chỉ tính các lực thực.
Để giữ nguyên dạng trong hệ phi quán tính, ta phải thêm một (hoặc nhiều) lực giả định gọi là lực quán tính (hay lực ảo, lực giả) :
Trong đó, được xác định từ sai biệt giữa gia tốc thật và gia tốc quan sát trong hệ phi quán tính. Ví dụ, với trường hợp chỉ tịnh tiến,
Ta gọi là lực quán tính (hoặc lực ảo, lực giả) vì nó không do tương tác vật lý thực sự gây ra (không có nguồn gốc điện, từ, hấp dẫn…); nó chỉ xuất hiện do ta đang đứng trong một khung chuyển động phi quán tính.
Trong phương pháp D’Alembert, ta viết phương trình cân bằng lực cho một vật đang chuyển động, với lực quán tính được đưa vào như một lực “bù”. Phát biểu của nguyên lý này có thể viết gọn:
“Tổng đại số của các lực thực và lực quán tính tác dụng lên mỗi chất điểm của hệ bằng không (trong trường hợp tĩnh học) hoặc bằng khối lượng nhân gia tốc trong trường hợp động học).”
Khi xét bài toán động lực học trong hệ quy chiếu phi quán tính, thay vì viết:
ta viết:
trong đó chính là lực quán tính theo “định nghĩa” trong ngữ cảnh của phương pháp D’Alembert.
Như vậy, sự tồn tại của lực quán tính được chứng minh/giải thích thông qua việc so sánh sự khác nhau của gia tốc trong hai hệ quy chiếu (một quán tính và một phi quán tính). Chính phần chênh lệch này khiến ta phải “chế ra” lực quán tính để cân bằng phương trình động lực học theo dạng đã quen thuộc.