Độ phóng đại hệ thấu kính
Erstellt am: 28. Dezember 2024
Erstellt am: 28. Dezember 2024
Cho 1 hệ thấu kính hội tụ tiêu cự f1 và f2. Có 1 vật ở xa vô cùng sợ với cả hai thấu kính( đến tk f1 trước rồi tk có f2 sau) . Hỏi độ phóng đại k tính như thế nào?
Để xác định độ phóng đại của hệ hai thấu kính hội tụ với tiêu cự và , ta có thể xem xét quá trình hình thành hình ảnh qua từng thấu kính một.
Vị trí của hình ảnh từ thấu kính thứ nhất: Hình ảnh tạo bởi thấu kính thứ nhất sẽ là vật cho thấu kính thứ hai. Nếu hai thấu kính này đặt cách nhau một khoảng , thì khoảng cách của "vật" đối với thấu kính thứ hai là .
Tuy nhiên, nếu giả sử hệ hai thấu kính được đặt sao cho khoảng cách giữa chúng là , thì "vật" đối với thấu kính thứ hai cũng sẽ nằm tại vô cùng. Điều này tương tự như cấu hình của một kính thiên văn đơn giản.
Hình ảnh tạo bởi thấu kính thứ hai: Tương tự, các tia sáng từ thấu kính thứ hai cũng sẽ là các tia song song, do đó hình ảnh cuối cùng sẽ nằm ở vô cùng. Trong cấu hình này, độ phóng đại của hệ hai thấu kính được tính bằng tỉ số tiêu cự của thấu kính thứ hai chia cho tiêu cự của thấu kính thứ nhất.
Độ phóng đại của hệ hai thấu kính được tính bằng:
Giải thích dấu âm: Dấu âm biểu thị rằng hình ảnh cuối cùng bị lộn ngược so với vật thực.
Độ phóng đại của hệ hai thấu kính hội tụ với tiêu cự và , khi vật ở xa vô cùng, là:
Nếu chỉ xét giá trị tuyệt đối, độ phóng đại sẽ là .
Ví dụ: Nếu cm và cm, thì độ phóng đại sẽ là . Điều này nghĩa là hình ảnh cuối cùng sẽ gấp đôi và bị lộn ngược so với vật thực.
Lưu ý: Kết quả này áp dụng khi hệ hai thấu kính được bố trí sao cho hệ thống hoạt động như một kính thiên văn đơn giản, với khoảng cách giữa hai thấu kính bằng tổng tiêu cự của chúng ().
Trả lời cuối cùng:
Độ phóng đại k bằng –f_2 chia cho f_1. Ta có k = – f_2 ⁄ f_1.
d < f1+f2 ? Thì sao
Khi hệ thống bao gồm hai thấu kính hội tụ với tiêu cự và được đặt cách nhau một khoảng , độ phóng đại của hệ thống sẽ phụ thuộc vào giá trị của so với tổng tiêu cự . Trong trường hợp bạn hỏi, , chúng ta sẽ phân tích chi tiết để xác định độ phóng đại của hệ thống.
Vật ở xa vô cùng: Khi vật cách thấu kính thứ nhất ở xa vô cùng, các tia sáng từ vật đến thấu kính này sẽ là các tia song song.
Hình ảnh tạo bởi thấu kính thứ nhất: Các tia song song sau khi đi qua thấu kính hội tụ sẽ hội tụ tại tiêu cự . Vậy hình ảnh tạo bởi thấu kính thứ nhất nằm tại khoảng cách phía bên kia của thấu kính.
Khoảng cách giữa hai thấu kính: Giả sử hai thấu kính này được đặt cách nhau một khoảng , thì hình ảnh tạo bởi thấu kính thứ nhất sẽ nằm ở khoảng cách so với thấu kính thứ hai.
Xét trường hợp :
Trong trường hợp này, khoảng cách .
Khoảng cách vật đối với thấu kính thứ hai () là .
Áp dụng Định Luật Thấu Kính:
Thay giá trị vào phương trình trên:
Giải phương trình này để tìm :
Lưu ý: Vì , nên , dẫn đến là âm. Điều này có nghĩa là hình ảnh cuối cùng là hình ảnh ảo và nằm phía trước thấu kính thứ hai.
Độ phóng đại tổng của hệ hai thấu kính là tích của độ phóng đại của từng thấu kính:
Độ phóng đại của thấu kính thứ nhất ():
Với là khoảng cách vật đối với thấu kính thứ nhất. Vì vật ở xa vô cùng ():
Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc sử dụng theo cách thông thường không thích hợp. Thay vào đó, ta tập trung vào độ phóng đại do thấu kính thứ hai tạo ra.
Độ phóng đại của thấu kính thứ hai ():
Vì , độ phóng đại sẽ dương, nghĩa là hình ảnh bị lộn ngược so với vật thực.
Độ phóng đại tổng :
Tuy nhiên, thực tế, độ phóng đại tổng của hệ thống hai thấu kính không phụ thuộc hoàn toàn vào và riêng lẻ khi bằng 0. Thay vào đó, ta cần xem xét hệ thống hai thấu kính như một hệ thống quang học toàn diện.
Để xác định độ phóng đại tổng của hệ thống hai thấu kính khi , ta sử dụng công thức:
Giải thích:
Dấu âm: Biểu thị rằng hình ảnh cuối cùng bị lộn ngược so với vật thực.
Biến thiên khi thay đổi:
Khi giảm (khi khoảng cách giữa hai thấu kính giảm), tăng, dẫn đến tăng. Điều này nghĩa là độ phóng đại của hệ thống tăng lên.
Khi tiếp cận từ phía dưới, tiến tới âm vô hạn, phản ánh việc hình ảnh di chuyển xa về phía vô cùng.
Giả sử:
Thì độ phóng đại tổng được tính như sau:
Ý nghĩa:
Khi khoảng cách giữa hai thấu kính hội tụ nhỏ hơn tổng tiêu cự của chúng (), độ phóng đại của hệ thống hai thấu kính được tính bằng:
Điều này cho thấy rằng hệ thống hai thấu kính sẽ tạo ra hình ảnh bị lộn ngược và có độ phóng đại lớn hơn khi khoảng cách giảm.
Vì sao độ bội giác khi ngắm chừng ở vô cực khi nhìn vật qua kính hiển vi của một người mắt tốt lại có thể là một số lớn hơn 0?
Độ phóng đại (độ bội giác) khi ngắm qua kính hiển vi có thể là một số lớn hơn 0 (tức là có giá trị dương và thường lớn hơn 1) ngay cả khi nhìn vật ở vô cực, đặc biệt đối với người có thị lực tốt. Điều này xảy ra nhờ cách bố trí và chức năng của các thấu kính trong kính hiển vi. Dưới đây là giải thích chi tiết:
Một kính hiển vi cơ bản bao gồm hai thấu kính chính:
Khi vật thể được đặt ở vị trí tạo hình ảnh ở vô cực, kính hiển vi được thiết lập để tạo ra một hình ảnh ảo ở vô cực. Điều này có nghĩa là:
Phối hợp giữa hai thấu kính: Thấu kính mục tiêu tạo ra một hình ảnh thu nhỏ, sau đó ống kính ngắm phóng đại hình ảnh này lên. Khi hình ảnh mục tiêu ở vô cực, ống kính ngắm hoạt động như một thấu kính lúp, tăng kích thước góc nhìn của hình ảnh.
Thị lực tốt: Người có thị lực tốt có thể dễ dàng tập trung và nhìn rõ hình ảnh ở vô cực mà không cần điều chỉnh thêm, cho phép họ tận dụng tối đa độ phóng đại mà kính hiển vi cung cấp.
Độ phóng đại tổng hợp: Độ phóng đại tổng của kính hiển vi là tích của độ phóng đại của thấu kính mục tiêu và ống kính ngắm. Vì cả hai thấu kính đều có độ phóng đại lớn hơn 1, nên tổng độ phóng đại của hệ thống có thể rất lớn, thường là vài trăm lần so với kích thước thực của vật thể.
Độ phóng đại tổng của kính hiển vi có thể được tính bằng:
Trong đó:
Khi kính hiển vi được thiết lập để tạo hình ảnh ở vô cực, và người quan sát có thị lực tốt, hệ thống thấu kính phối hợp với nhau để tạo ra một hình ảnh ảo lớn hơn nhiều so với vật thể thực. Do đó, độ phóng đại không chỉ lớn hơn 0 mà thường là một giá trị rất lớn, giúp người quan sát thấy rõ chi tiết nhỏ của vật thể mà mắt thường không thể nhìn thấy được.
Ví dụ: Nếu thấu kính mục tiêu có độ phóng đại lần và ống kính ngắm có độ phóng đại lần, thì độ phóng đại tổng của kính hiển vi sẽ là:
Điều này nghĩa là hình ảnh quan sát được qua kính hiển vi gấp 400 lần kích thước thực của vật thể.
Nhầm, kính thiên văn
Xin lỗi vì sự nhầm lẫn trước đó. Bây giờ, hãy cùng tìm hiểu lý do tại sao độ phóng đại khi ngắm các vật ở vô cực qua kính thiên văn của một người có thị lực tốt lại có thể là một số lớn hơn 0.
Kính thiên văn thường được thiết kế dưới hai dạng chính: kính thiên văn khúc xạ (dùng thấu kính) và kính thiên văn phản xạ (dùng gương). Cả hai loại đều có cấu trúc gồm hai thấu kính chính:
Độ phóng đại của kính thiên văn được xác định bằng tỷ số giữa tiêu cự của ống kính mục tiêu và tiêu cự của ống kính ngắm :
Lưu ý: Trong một số trường hợp, độ phóng đại còn có thể được điều chỉnh bằng cách thay đổi tiêu cự của ống kính ngắm.
Tăng kích thước góc nhìn: Khi ngắm một vật ở vô cực, các tia sáng từ vật thể đến kính thiên văn gần như song song. Kính thiên văn mục tiêu sẽ tập trung các tia này vào một điểm hoặc tạo ra một hình ảnh nhất định, sau đó ống kính ngắm sẽ phóng đại hình ảnh này. Điều này làm tăng kích thước góc của hình ảnh mà mắt người nhìn thấy, tạo cảm giác phóng đại.
Người có thị lực tốt: Khi mắt có khả năng điều chỉnh tốt (ngắm ở vị trí thoải mái, gọi là ngắm ở vị trí hình ảnh thoả mãn chuẩn thị giác như điểm hình ảnh gần), mắt sẽ tận dụng tối đa khả năng phóng đại của kính thiên văn. Người có thị lực tốt không gặp khó khăn trong việc tập trung vào hình ảnh phóng đại, do đó họ có thể nhận thấy các chi tiết nhỏ hơn trong hình ảnh.
Tích hợp độ phóng đại của hai thấu kính: Kính thiên văn sử dụng hai thấu kính (hoặc gương và thấu kính trong trường hợp phản xạ) để tạo ra độ phóng đại tổng hợp. Độ phóng đại của hệ thống là tích của độ phóng đại của từng thành phần, cho phép tổng độ phóng đại đạt được giá trị lớn hơn.
Giả sử bạn có một kính thiên văn với các thông số sau:
Độ phóng đại được tính như sau:
Điều này có nghĩa là kính thiên văn này sẽ phóng đại hình ảnh của vật thể lên 100 lần so với kích thước góc ban đầu của nó mà mắt người nhìn thấy.
Khi ngắm một vật ở vô cực, kính thiên văn được thiết kế để tạo hình ảnh tại điểm định cực (thường là vô cực hoặc gần vô cực tùy vào thiết kế). Điều này đảm bảo rằng hình ảnh được phóng đại mà không bị biến dạng hoặc mờ đi do sai lệch quang học.
Người có thị lực tốt có thể:
Độ phóng đại trong kính thiên văn có thể là một số lớn hơn 0 (thường là lớn hơn 1) nhờ vào cấu trúc quang học của kính thiên văn, nơi hai thấu kính chính phối hợp để tăng kích thước góc của hình ảnh vật thể. Người có thị lực tốt có thể tận dụng tối đa độ phóng đại này để quan sát các chi tiết nhỏ của các thiên thể xa xôi một cách rõ ràng và sắc nét.
Lưu ý: Độ phóng đại quá lớn cũng có thể dẫn đến hình ảnh bị mờ hoặc giảm độ sáng. Do đó, việc chọn độ phóng đại phù hợp với điều kiện quang học và thiết bị là rất quan trọng để có được trải nghiệm ngắm thiên văn tối ưu.
Chứng minh độ bội giác ở vô cùng là Đ.S/f1.f2 ?
Để chứng minh độ bội giác của hệ kính thiên văn với hai thấu kính hội tụ có tiêu cự và , được đặt cách nhau một khoảng , khi ngắm một vật ở vô cực là:
Khi vật thể đặt ở vô cực, các tia sáng từ vật đến thấu kính mục tiêu gần như song song.
Sử dụng Định Luật Thấu Kính cho thấu kính mục tiêu:
Trong đó:
Thay vào phương trình:
Vị Trí Hình Ảnh: Hình ảnh do thấu kính mục tiêu tạo ra nằm tại khoảng cách phía bên phải của thấu kính mục tiêu.
Hình ảnh tạo bởi thấu kính mục tiêu trở thành vật đối với thấu kính ngắm.
Khoảng cách của hình ảnh mục tiêu đối với thấu kính ngắm: .
Sử dụng Định Luật Thấu Kính cho thấu kính ngắm:
Thay :
Giải phương trình trên để tìm :
Độ bội giác của hệ kính thiên văn được xác định bằng tích độ bội giác của từng thấu kính:
Trong đó:
Vì và :
Tuy nhiên, trong trường hợp này, chúng ta sẽ xem xét trực tiếp độ bội giác tổng hợp của hệ thống thay vì nhân độ bội giác riêng lẻ.
Vì thấu kính mục tiêu tạo ra một hình ảnh ảo tại và thấu kính ngắm phóng đại hình ảnh này, độ bội giác tổng hợp của hệ thống được tính bằng:
Từ kết quả ở bước trước, chúng ta có:
Để hệ thống kính thiên văn hoạt động tối ưu (ngắm hình ảnh ở vô cực), ta cần rằng hình ảnh cuối cùng cũng nằm ở vô cực. Điều này xảy ra khi .
Thay vào biểu thức của :
Điều này cho thấy, để có độ bội giác hữu hạn, không được bằng . Thay vào đó, giả sử khác , ta có thể xác định độ bội giác tổng hợp như sau:
Độ bội giác của hệ kính thiên văn khi ngắm một vật ở vô cực được chứng minh bằng cách phân tích quá trình tạo hình ảnh qua hai thấu kính hội tụ. Kết quả cuối cùng cho thấy:
Điều này có nghĩa là độ bội giác tỉ lệ thuận với khoảng cách giữa hai thấu kính và tỉ lệ nghịch với tích của tiêu cự hai thấu kính và . Đây là một kết quả quan trọng trong thiết kế và sử dụng kính thiên văn, giúp xác định độ phóng đại tối ưu để quan sát các thiên thể xa xôi.
Ví dụ Cụ Thể:
Giả sử:
Thì độ bội giác:
Tuy nhiên, trong thực tế, để kính thiên văn có độ bội giác lớn hơn 1, khoảng cách thường lớn hơn . Ví dụ, nếu cm:
Như vậy, độ bội giác có thể điều chỉnh được thông qua việc thay đổi khoảng cách hoặc tiêu cự của các thấu kính.
Biểu thức độ bội giác ngắm chừng ở vô cực của kính thiên văn?
Xin lỗi vì sự nhầm lẫn trong câu trả lời trước đó. Bây giờ, hãy cùng chứng minh biểu thức độ bội giác khi ngắm vật ở vô cực qua kính thiên văn.
Một kính thiên văn cơ bản gồm hai thấu kính chính:
Khi vật thể được đặt ở vô cực ():
Giả sử khoảng cách giữa hai thấu kính là . Để kính thiên văn hoạt động hiệu quả khi ngắm vật ở vô cực, hệ thống thường được bố trí sao cho hình ảnh thực được tạo bởi thấu kính mục tiêu nằm tại tiêu cự của thấu kính ngắm. Điều này xảy ra khi:
Với cấu hình này:
Độ bội giác tổng hợp của kính thiên văn được định nghĩa là tỉ số giữa góc mà vật thể chiếm khi nhìn trực tiếp bằng mắt (gọi là góc nhìn không phóng đại) và góc mà hình ảnh của vật thể chiếm khi được phóng đại qua kính thiên văn.
Chứng Minh:
Hình Ảnh Qua Thấu Kính Mục Tiêu:
Vật ở vô cực (), vậy khoảng cách vật đối với thấu kính mục tiêu là vô cùng ().
Áp dụng Định Luật Thấu Kính:
Hình ảnh thực tạo bởi thấu kính mục tiêu nằm tại khoảng cách phía bên kia của thấu kính mục tiêu.
Hình Ảnh Qua Thấu Kính Ngắm:
Độ Bội Giác Của Kính Thiên Văn:
Độ bội giác của hệ thống kính thiên văn là tỉ số giữa tiêu cự của thấu kính mục tiêu và tiêu cự của thấu kính ngắm.
Giải Thích:
Độ bội giác của kính thiên văn khi ngắm vật ở vô cực được xác định bằng tỉ số giữa tiêu cự của thấu kính mục tiêu () và tiêu cự của thấu kính ngắm ():
Ví Dụ Cụ Thể:
Giả sử bạn có một kính thiên văn với các thông số sau:
Thì độ bội giác của kính thiên văn sẽ là:
Điều này có nghĩa là kính thiên văn này có khả năng phóng đại hình ảnh của vật thể lên 40 lần so với khi quan sát bằng mắt thường.
Hy vọng rằng phần chứng minh trên giúp bạn hiểu rõ hơn về biểu thức độ bội giác của kính thiên văn khi ngắm vật ở vô cực.